Sau khi được thí điểm thành công tại tỉnh Quảng Ninh, bước vào thực hiện trên phạm vi cả nước, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành giai đoạn 1 của Chương trình OCOP (từ 2018-2020). Mục tiêu của giai đoạn này là hình thành được hệ thống hỗ trợ cộng đồng thực hiện OCOP từ trung ương đến địa phương, xây dựng hệ thống tổ chức, bố trí cán bộ và triển khai trơn tru ít nhất một chu trình OCOP thường niên. Qua đó, hiểu rõ nội hàm, các khái niệm, rút ra bài học kinh nghiệm để triển khai tốt giai đoạn 2 của chương trình.

Hiện, chúng ta đang bước vào giai đoạn 2 của OCOP (2021-2025). Giai đoạn này, chúng ta vừa kiện toàn hệ thống, phương pháp, công cụ,… của giai đoạn 1, vừa đi vào chiều sâu. Trong đó, một số điểm quan trọng, cần phải được lưu ý như sau:
Hệ thống chính trị phải vào cuộc đồng bộ – quyết liệt; Tiếp tục kiện toàn, nâng cao chất lượng nguồn lực cán bộ các cấp
OCOP không đơn thuần là chương trình kinh tế, mà còn tham gia thực hiện các vấn đề chính trị, xã hội ở vùng nông thôn: Để triển khai sản phẩm, chương trình có hình thành và tái cấu trúc các HTX, doanh nghiệp ở vùng nông thôn, từ đó làm cho người dân, thông qua góp vốn vào các HTX, doanh nghiệp, trở thành chủ nhân của quá trình phát triển. Điều này phù hợp với các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa với vai trò quan trọng của kinh tế hợp tác, hoàn thành mục tiêu phát triển 1 triệu doanh nghiệp,…; Chương trình tham gia tạo công ăn việc làm, thu nhập thông qua sản xuất và kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ có lợi thế. Điều này phù hợp với chủ trương hạn chế di dân đến các thành phố tìm công ăn việc làm; Chương trình có nhiều hoạt động hỗ trợ cộng đồng, thông qua đào tạo, huấn luyện nhân lực tham gia OCOP,… Điều này góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Chính phủ kiến tạo – liêm chính – hành động – bứt phá. Do vậy, việc triển khai OCOP là trách nhiệm của hệ thống chính trị ở vùng nông thôn.
Tuy nhiên, ở giai đoạn 1, sự vào cuộc của hệ thống chính trị chưa đồng đều giữa các ngành, các cấp. Trong khi cả hệ thống chính trị và ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng như nhiều ngành khác vào cuộc một cách quyết liệt nhằm thuyết phục, vận động bà con hình thành HTX/SMEs, vật lộn cùng bà con để phát triển sản phẩm, lo đầu vào, tìm kiếm nơi bán hàng, hạch toán lỗ lãi,… thì vẫn có một số ngành đứng ngoài cuộc.
OCOP là công việc lâu dài để phát triển kinh tế – xã hội vùng nông thôn. Trong bối cảnh phải giảm biên chế, nhiều địa phương gặp khó khăn về bố trí nhân lực thực hiện OCOP, hầu hết đều bố trí cán bộ kiêm nhiệm, dẫn đến quá tải về công việc. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm tại Thái Lan, mỗi cán bộ cấp huyện phụ trách OCOP, ở giai đoạn phát triển đầy đủ, có thể tham gia tạo doanh thu khoảng 50-100 tỉ (hay hơn) từ các sản phẩm OCOP của huyện đó. Bởi vậy, dưới góc độ kinh tế, việc bố trí hơn mỗi huyện/thị 1 cán bộ chuyên trách là hoàn toàn có thể chấp nhận được.
Chất lượng cán bộ ở tỉnh và mỗi huyện liên quan đến thành bại của Chương trình. Khi bố trí được cán bộ “Tận tâm – Hiểu biết” thì OCOP ở địa phương đó thành công. Ngược lại, khi các cán bộ phụ trách “Lơ mơ – Vô cảm” thì Chương trình gặp khó khăn, trắc trở và không thành công đúng nghĩa như mục tiêu đặt ra.
Về chuyên môn, các cán bộ này nên có nền tảng kinh tế hơn là nông nghiệp (thường có xu hướng tập trung vào chuyên môn). Các cán bộ này phải di chuyển nhiều để hỗ trợ cộng đồng, bởi vậy cần có sức khỏe, có phương tiện đi lại và muốn giao tiếp với cộng đồng. Do đó, việc bố trí cán bộ thực hiện OCOP bằng cách điều động những người “không biết đẩy đi đâu” là không phù hợp, và thậm chí dẫn đến thất bại. Đội ngũ cán bộ luôn có nguồn gốc đào tạo đa dạng, do đó hiểu biết đầy đủ về các nguyên lý trong chương trình OCOP là không giống nhau, nên cần thiết phải tiến hành đào tạo để đảm bảo nhận thức, tư duy và kỹ năng đồng nhất.

Cần thấm nhuần tư duy OCOP không phải là chương trình “Hàng Việt Nam chất lượng cao”; Tuân thủ nghiêm túc Chu trình OCOP thường niên, trên cơ sở đảm bảo 3 nguyên tắc cơ bản của chương trình.
Chu trình OCOP thường niên giống như một cái cối xay, khi quay một vòng (1 năm) thì ra nhiều gạo (sản phẩm – dịch vụ OCOP). Nếu chung ta không cho cái cối này quay (không triển khai chu trình) thì không thể ra sản phẩm theo đúng nghĩa của Chương trình OCOP.

Định hướng nhưng không giới hạn sản phẩm: Không lẫn với khái niệm “ngành hàng” và sản phẩm. Tuân thủ quy luật cạnh tranh của thị trường: Có cạnh tranh mới có phát triển. Để hạn chế các sản phẩm “na ná nhau”, có thể định hướng bằng chính sách như sản phẩm mới được ưu tiên hỗ trợ, hoặc đưa vào tiêu chí lựa chọn và thông qua đào tạo huấn luyện theo Chu trình.
Không chọn sản phẩm đã có sẵn để đăng ký, đi thi và trao giải. Điều này sai 3 nguyên tắc cơ bản của Chương trình OCOP: Hành đông địa phương nhưng hướng đến toàn cầu; Tự lực – Tự tin – Sáng tạo; Phát triển nguồn nhân lực.
Trong quá trình phát triển và thương mại hóa sản phẩm, phần người dân cần hỗ trợ nhất là: Tìm ý tưởng sản phẩm, xây dựng kế hoạch kinh doanh, triển khai kế hoạch kinh doanh, tìm nguồn vốn, tổ chức sản xuất, phát triển sản phẩm, nâng cao năng lực,… Điều này có nghĩa là Nhà nước phải đồng hành cùng người dân ngay từ khâu tìm ý tưởng sản phẩm.
Cách khởi đầu OCOP tốt nhất là tổ chức “Hội nghị triển khai OCOP” cấp huyện, là bước 1 của Chu trình OCOP hằng năm. Trong đó, điểm mấu chốt là mời được người dân có ý tưởng đến dự (giám đốc các HTX, các doanh nghiệp, tổ hợp tác, người dân có ý tưởng “làm ăn”); Không “nói miệng”, mà cần in đủ các mẫu ý tưởng sản phẩm và phát cho tất cả các cá nhân đến dự Hội nghị và hẹn thời hạn (thường không quá 2 tuần) nộp về huyện;
Hội nghị này nên do Bí thư/Chủ tịch, Phó bí thư/chủ tịch huyện chủ trì. Một khi người dân nộp ý tưởng sản phẩm, cả hệ thống OCOP sẽ có “việc làm” lâu dài. Khâu phát triển ý tưởng cũng là lực đẩy quan trọng để chu trình OCOP vận hành mạnh mẽ.
Bản chất cốt lõi trong phát triển cộng đồng là xuất phát từ dưới lên trong Chu trình OCOP. Thông qua tuyên truyền và phát phiếu đăng ký ý tưởng sản phẩm, người dân tự xác định và đề xuất ý tưởng sản phẩm.
Một khi đã đề xuất, người dân sẽ tự giác theo đổi ý tưởng của mình và giành nguồn lực để hiện thực nó. Nhà nước chỉ hỗ trợ sau khi người dân đề xuất. Các sản phẩm khác, dù có thể được cho là hay, có tiềm năng bởi ý chí chủ quan của các “cán bộ”, nhưng người dân không đề xuất thì không thuộc phạm vi của Chương trình.

Không được bỏ quên, phải đặc biệt quan tâm song hành cùng các chủ thể cũ (đã tham gia giai đoạn trước)
Các chủ thể tham gia OCOP giai đoạn 1 đã vượt qua giai đoạn hình thành và bước đầu tiếp cận thị trường. Ở giai đoạn 2, phần lớn các chủ thể này đang ở chu kỳ lỗ của doanh nghiệp. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức mới, như lo vốn cố định để có thiết bị hoàn thiện – nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng nhà xưởng, phát triển vùng nguyên liệu,…; lo vốn lưu động để mở rộng thị trường; nâng cao trình độ quản trị để không “loạn” khi có thêm nhiều người; bảo đảm – giữ vững chất lượng khi tăng quy mô sản xuất;… Các thách thức này sẽ vô cùng khốc liệt, bởi vậy cần tiếp tục giành nguồn lực thích đáng để hỗ trợ các chủ thể OCOP này phát triển mà không bị dừng sản xuất hoặc phá sản.
Đây là lúc tập trung các sản phẩm có cơ hội để mở rộng quy mô, đi vào chiều sâu trong phát triển sản phẩm OCOP, rất cần nguồn lực (không chỉ là tài chính); do vậy, vai trò của nhà nước là hết sức quan trọng trong trợ giúp các chủ thể OCOP tăng cường triển khai hàng loạt các hoạt động để phát triển hệ thống đối tác OCOP, gia tăng giá trị sản phẩm như: Xúc tiến thương mại và bán hàng; Tham gia các chuỗi liên kết phù hợp; Tái cấu trúc SXKD; Tăng cường năng lực quản trị – kiểm soát chất lượng SP; Tổ chức thực hiện các chiến dịch tiếp thị – maketing tổng hợp; Ứng ụng CN 4.0, số hóa hoạt động SXKD; Đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực quản lý./.
Ghi chú: Nội dung được trích lược tại Tham luận “Một số điểm cần chú ý khi triển khai giai đoạn 2 của Chương trình OCOP tại tỉnh Bắc Kạn” của PGS.TS. Trần Văn Ơn – Cố vấn OCOP Quốc gia; Tư vấn trưởng OCOP Quảng Ninh (giai đoạn 1), Bắc Kạn, Quảng Nam; Chủ tịch HĐQT Công ty CP Phát triển Dược khoa.